Ở biên địa cùng trời cuối đất Cà Mau, Vườn quốc gia U Minh Hạ là một viên ngọc sinh thái quý giá.

Nơi này hợp với rừng đước Năm Căn tạo thành hai khu dự trữ sinh quyển của thế giới, một là rừng ngập nước ngọt và một là rừng ngập nước mặn. Vậy nên, chuyện U Minh Hạ đầy rẫy kỳ hoa dị thảo cũng là lẽ thường.
Cây tràm chính là chủ nhân kiến tạo nên hệ sinh thái rừng ngập úng nước ngọt U Minh Hạ. Vai trò của cây tràm rất lớn, từ việc tạo thành rừng – không gian sinh sống của hàng trăm loài động vật, đến nền đất than bùn và nguồn nước có màu nâu đỏ đặc thù như đã nói ở kỳ trước.
Theo con số do ban quản lý Vườn quốc gia U Minh Hạ cung cấp, tổng diện tích rừng tràm ở đây vào khoảng 35.000ha, trong đó, có 8.256ha thuộc vùng lõi của Vườn quốc gia U Minh Hạ. Khi lần đầu tiên đặt chân đến đây, chúng tôi không khỏi bị choáng ngợp trước sự bao la, mênh mông của khu rừng tràm này.
Tán tràm rậm rạp của hơn 8.000ha rừng tràm chính là mái nhà của vô số loài động vật hoang dã như nai, heo rừng, khỉ, chồn, trăn, rắn, rùa, tê tê… bởi đây là môi trường lý tưởng cho các loài động vật hoang dã quý hiếm lưu trú, sinh trưởng.
Đặc biệt, nơi đây cũng là sinh cảnh của nhiều loài chim quý như chim sen, chằng bè, đây là loài chim to với sải cánh trên 1m, trọng lượng hàng chục cân. Đất lành chim đậu, vậy nên rừng tràm đã tạo nên một nơi lưu trú an toàn, giàu nguồn thức ăn để chim chóc tìm về.
Cây tràm nở hoa bạt ngàn để thành nguồn thức ăn cho loài ong mật. Thế nên sẽ là thiếu sót lớn nếu không kể đến loại mật ong hoa tràm nức tiếng của rừng U Minh Hạ, thứ mật trong và vàng như nước cam, đặc sánh, thơm ngào ngạt hương vị của hoa tràm, mang lại giá trị dinh dưỡng cao cho sức khỏe.
Đấy là mới nói đến phần “rừng” của Vườn quốc gia U Minh Hạ, giờ chúng ta mới khám phá phần “ngập nước ngọt” với vô số điều kỳ lạ khiến người ta phải đem lòng si mê chốn này. Đây mới là điểm tạo nên những truyền thuyết về rừng U Minh với bác Ba Phi và những câu chuyện thật như bịa, bịa như thật.
U Minh Hạ là vùng ngọt hóa nên rất trù phú các sản vật nước ngọt. Dưới làn nước màu nâu đỏ do trầm tích than bùn và lá tràm rụng tạo ra, chúng ta có thể thống kê được khoảng 60 loài cá nước ngọt và cá nước lợ, trong đó có những thứ cá “trấn môn chi bảo” như cá lóc đồng, cá rô, cá lóc.
Trước khi được tiếp cận rừng U Minh rất lâu, tôi đã được đọc, được nghe kể về cái chuyện cá, rùa, rắn xứ này không “bao la thiên địa” thì cũng “mênh mông trời bể” trong những trang sách của Đoàn Giỏi hay Sơn Nam, rồi cả chuyện dóc của bác Ba Phi.
Những con cá lóc đồng sống đầy nhóc dưới kênh rạch trong rừng tràm, con nào con nấy năm cân, nửa yến là chuyện bình thường. Nhưng bây giờ, những con cá bự tổ chảng không còn nhiều nữa, tuy nhiên, những loại to như bắp chân vẫn rất nhiều. “Đủ để khiến các anh ăn đến phát sợ thì thôi”, anh Đúng – cán bộ của Vườn quốc gia U Minh Hạ theo dẫn đoàn – xởi lởi kể.
Theo lời anh Đúng, giống cá lóc đồng sống trong rừng tràm U Minh Hạ ngon nhất là thời điểm từ tháng Mười âm đến tháng Giêng. Bởi đây là thời điểm mùa mưa nên nước dưới chân rừng dâng lên cao nhất, nhờ đó các loại cá sinh trưởng khiến nguồn thực phẩm của cá lóc dồi dào. Cá lóc không béo ú mới lạ.

Cá lóc chế biến những món ngon, nhưng chẳng gì bằng món nướng trui có từ thời cha ông khi mở đất, khai khẩn rừng hoang. Ngay cả bác Ba Phi cũng dóc tổ rằng: “Cá lóc nướng bằng than tràm, ăn với cỏ the, bông súng, đọt choại thì đến cọp cũng phải đứng ngoài chòi vái xin ăn”.
Con cá lóc đồng có thể không khiến khách lạ quá trầm trồ về vóc dáng thiên nhiên hoang dã khi so với cá lóc nuôi, thế nhưng con lươn, con cá rô của rừng tràm lại khác. Chúng khiến người ta phải nghi ngờ về những giống được gọi là lươn đồng hay cá rô đồng ngoài kia.
Hệ thống nước nâu đỏ của rừng tràm rất giàu dinh dưỡng nên đã khiến những sinh vật sống ở đây được phát triển tột bậc, hương vị và chất lượng ở một cái tầm hoàn toàn “out trình” đồng loại ở nơi khác. Những con lươn to bằng cổ tay người lớn, nặng 1-2 cân, da vàng óng, thịt dẻo giòn như thạch và ngọt lịm.
Lươn đồng xứ U Minh Hạ nấu thành nhiều món ngon dân dã, như cháo lươn bẹ môn, lươn nấu canh chua, lươn kho mắm, lươn xào sả ớt… đặc biệt là món lươn um lá nhàu bá cháy với hương vị ngon ngọt từ thịt lươn, vừa béo ngậy từ nước cốt dừa và hoà quyện với vị ngọt đắng của lá nhàu.
Cá rô to cỡ bàn tay thiếu niên, cá thác lác, cá sặc vằn với thịt ngọt thơm như ướp hoa tràm sẽ làm nên món lẩu mắm U Minh tuyệt đỉnh. Ðây là món ăn đặc trưng có từ thời khẩn hoang mở đất rừng U Minh Hạ. Nguyên liệu chính của món lẩu mắm là mắm sặt, cá đồng và rau rừng bản địa như đọt choại, rau muống, rau dừa, rau mác, bông súng, hoa chuối non, hẹ nước…
Buổi trưa hôm đó, chúng tôi được thết đãi “cả một cánh rừng tràm U Minh”, từ bầu không khí thanh sạch thoang thoảng tinh dầu tràm, đến những giống thuỷ sản sinh trưởng trong làn nước màu nâu đỏ thủy phân từ xác tràm và tình người nồng hậu của Vườn quốc gia U Minh Hạ.
Điều đáng tiếc, nếu có, chỉ là không được chứng kiến cảnh con cọp nằm giữa hai thân tràm, rồi dùng đuôi tát nước dưới kênh để bắt cá lóc như chuyện của bác Ba Phi. Mà có lẽ ông già “nửa hư cấu, nửa có thật” này cũng chỉ nói dóc để ca ngợi cánh rừng U Minh xứ mình mà thôi!
Theo Báo Lao Động
