Những ngư dân người Việt kéo mấy bon rượu để đãi khách “từ nước mình sang”. “Nhà báo ở Sài Gòn”, có người giới thiệu như thế. Ai cũng từng nghe nói đến Sài Gòn nhưng không hình dung được nước Việt Nam – Sài Gòn ra sao, bởi vì nhiều người chưa bao giờ đặt chân lên con đường nhựa, chưa từng tận mắt thấy phố thấy phường nên thành phố là hai chữ quá xa lạ.
Đa số người Việt trên Biển Hồ không đi ra khỏi làng chài. Họ không mấy khi vào bờ, mà cũng chẳng biết vào bờ để làm gì. Có nhiều người cả đời không biết Siem Reap. Sài Gòn hay Hà Nội chỉ nghe thôi cũng thấy xa rồi. Thi thoảng có người hỏi nhà báo: “Nước mình có to như Cam Pu Chia không anh?”. Nghe họ nói hai chữ “nước mình” mà thấy xót xa và thương cảm. Họ có một nước để gọi là “nước mình” nhưng không biết gì về nước của mình. Không ai nói cho họ biết về “nước của mình”, họ không có chữ để đọc, họ mù tất cả, chỉ có điều họ biết, đó là họ mang dòng máu Việt.
Cá tươi được làm nhiều món, mùi thơm ươm cả khoang thuyền. Rượu được rót ra và cạn liên tục. Những người đàn ông ở đây uống rượu không cần nhiều lời, cứ rót ra là uống. Có vẻ như họ cố tình uống thật vội để say thật vội. Họ không uống rượu thì biết làm gì trên cái bể nước hoang vắng đó. Uống say thật vội để ngủ, để quên đi một ngày nặng nhọc. Đêm cứ đặc lại và tiếng gió hú dài hơn. Ngồi uống thật lâu nhưng không có ai bày chuyện gì ra để nói. Mà họ có chuyện gì nhiều để nói chứ?
Không gian sống của họ là cái làng chài với cộng đồng người Việt bé nhỏ, công việc của họ là đánh cá ở trên hồ, đối tượng giao tiếp cũng chừng ấy gương mặt của làng chài. Nói với nhau ngày này qua tháng khác đã hết chuyện. Họ biết nói tiếng Việt nhưng hầu hết không biết chữ Việt lẫn chữ Miên nên thông tin thời sự là thứ xa xỉ. Họ biết mình là người Việt nhưng không biết quê quán ở đâu, cha ông mình vì sao lưu lạc đến Biển Hồ. Nước Việt đối với họ rất gần mà rất xa. Hỏi rằng nước mình gần như vậy sao không về thăm. Họ nói về thăm ai, không biết nguồn gốc, quê quán, bà con ở đâu nên biết về đâu, về với ai? Còn du lịch là hai từ không có trong vốn từ vựng ít ỏi của họ.
Những người lớn tuổi nhất của làng chài chỉ nhớ rằng cha mẹ họ dạy họ nói tiếng Việt và nói cho họ biết “mình là người Việt”. Vốn liếng về gốc gác và thân phận chỉ có bấy nhiêu và cứ thế truyền lại cho con cháu. Họ sinh con đẻ cái, dựng vợ gả chồng trong cái làng chài trên Biển Hồ. Nhà nào khá giả cho con cái chiếc thuyền để ra riêng. Thế là thêm một “căn nhà”, không cần hộ khẩu, không cần giấy chứng nhận quyền sử dụng “nước” và giấy chứng nhận quyền sở hữu “thuyền”. Biển Hồ mênh mông nên “cất nhà” ở đâu chẳng được. Không sợ tranh giành ranh giới, lấn “đất” nhà người khác. Thế hệ con cháu lại tiếp tục sinh con đẻ cái, cho đến nay, không ai biết có bao nhiêu đời người Việt trên Biển Hồ.
Sống lưu lạc trên đất khách, trên một góc nhỏ trong cái hồ lớn, cắt đứt mọi liên hệ với quá khứ, không có đường truyền thông tin với hiện tại và cũng chẳng suy nghĩ nhiều về tương lai, người Việt trên Biển Hồ là một cộng đồng đặc biệt trong thế giới hiện đại và giàu có về thông tin này. Họ không buồn nhớ đến tên mình, không cần biết những xao động của thế giới bên ngoài, họ hồn nhiên sống như bao đời người đã sống và thác trên Biển Hồ. Họ chỉ biết làm để có cái ăn, họ không quan tâm tới phong tục tập quán truyền thống bởi vì những gì cha ông họ để lại đã phai nhạt theo năm tháng.
Đến nơi đây, chỉ có một thứ duy nhất để biết rằng họ là người Việt là họ nói tiếng Việt. Cũng may, gần mười năm trước, có một anh bộ đội làm xong nghĩa vụ đã lên sống trên Biển Hồ, mở cái trường nổi để dạy chữ cho trẻ con. Dù không nhiều, nhưng sau này còn có người đọc và viết được dăm ba câu tiếng Việt.
Đêm trên Biển Hồ thao thức buồn. Không biết những người sống nơi đây có ray rứt về nỗi cô đơn thân phận như tôi nghĩ về họ không? Một cộng đồng long đong, bơ vơ nơi xứ người. Những phận người “du mục” trên bể nước mênh mông và vô định. Bất chợt, tôi nhớ mấy câu thơ viết về cuộc đời của người dân chài mà tôi được học khi còn bé: “…Hồn không gợn chút mây sầu dĩ vãng/ Nên chẳng buồn để ý bước mùa đi/ Xuân hay thu chớ tính toán làm gì/ Màu cá bạc đã thay trang giấy lịch…”.
(Tác giả: Nhà báo Lê Thanh Phong – Bài đã đăng trên Lao Động ngày 17/1/2012)

